Ngũ tuyệt
Dành cho ai thích đọc 😃😃😃😃
☆☆☆☆☆Luận Ngũ Bá
♡♡Võ Lâm Ngũ Tuyệt : không những tượng trưng cho Ngũ hành mà còn trưng cho các nền văn hóa trên thế giới .
>> Đông Tà Hoàng Dược Sư . Đào Hoa Đảo chính là nước Nhật .
>> Tây Độc Âu Dương Phong .biểu thị cho cả khối Châu Âu
>> Nam Đế là Nhất Đăng Đại Sư. đại diện cho Phật giáo tại Đông Nam Á
>> Bắc Cái có tên Hồng Thất Công, chính là biểu tượng của nước Liên Xô ngày nào
>> Trung thần thông Vương Trùng Dương chính là hình ảnh biểu tượng của đất nước Trung Quốc. Phải chăng vì vậy, trong võ lâm ngũ bá, Vương Trùng Dương văn võ toàn tài, nhất là võ công đường đường chính chính
☆☆☆ Phần I
● Vương Trùng Dương - Trung Thần Thông
Những tưởng Kim Dung tự xem Trung Hoa là nước xứng đáng dẫn đầu các nước khác là việc tự nhiên. Thật sự thì trong thời cận đại, nước Trung Hoa không phải là cường quốc mạnh nhất thế giới . Bởi đó, mặc dù danh hiệu đệ nhất võ lâm đã đạt được sau một cuộc tranh tài bằng võ nghệ,nhưng nó không phải được dùng để chỉ quốc gia cường thịnh nhất mà để nói đến quốc gia có nền văn hoá đáng trọng vọng nhất.
- Ý NGHĨA CỦA NGOẠI HIỆU TRUNG THẦN THÔNG.
1- Trung là ở ngay chính giữa. Từ ngàn xưa, người Tàu đã tự hào là mình sống ngay chính giữa địa cầu. Họ đã chính thức gọi dân tộc họ là dân tộc Trung Hoa và nước họ là Trung Quốc.
2- Về mặt tinh thần, người Trung Hoa lại theo đạo trung dung. Một số người thường lầm tưởng rằng trung dung là một thái độ ở nửa chừng trong mọi việc. Nhưng nếu hiểu trung dung như vậy thì khi phải chọn giữa hoà bình với chiến tranh, người đương nhiên phải theo chủ trương xung đột hạn chế, và khi phải chọn giữa việc làm người lương thiện với việc làm người ăn cướp thì người đương nhiên phải chấp nhận làm người ăn trộm. Sự chọn lựa máy móc như vậy không có gì khó khăn và cũng không có tính cách đạo lý chút nào nên ta không hiểu đạo trung dung như vậy được.
Sự thật trong Hán văn Nó chỉ tư thế của một con người lúc nào cũng đứng trong vị thế quân bình, không nghiêng không lệch về phía nào, và trong mọi việc làm đều có thái độ thích ứng, vừa phải, không thái quá cũng không bất cập. Vì mọi việc trong đời đều biến đổi không ngừng nên việc theo đạo trung dung như thế không phải là dễ dàng. Nhưng nếu người cố gắng theo đạo trung dung được thì người trở thành sáng suốt, hiểu biết được mọi sự việc và có thể biến cải để ứng phó với mọi khó khăn, mọi trở lực, mọi địch thủ. Nói cách khác, người trở thành Thần Thông và có thể tự bảo vệ, đồng thời thực hiện được các nguyện vọng của mình.
3- Như thế, ngoại hiệu TRUNG THẦN THÔNG vừa gọi đúng danh hiệu, vừa nêu ra một quan niệm triết lý căn bản và khả năng đặc biệt của quốc gia Trung Hoa. Trong vũ trụ quan của người Trung Hoa từ ngàn xưa, ngũ hành cùng các phương hướng và các màu sắc có mối liên hệ chặt chẽ với nhau. Vị thế trung ương thuộc hành thổ và liên hệ với màu vàng. Bởi đó trong Ngũ Bá, Trung Thần Thông thường mặc áo vàng, mà trong tổ chức chính trị cổ của Trung Hoa, màu vàng lại là màu dành cho nhà vua. Việc Trung Thần Thông thường mặc màu vàng xác nhận địa vị số một của ông ta trong võ lâm.
– Ý NGHĨA CỦA HỌ VƯƠNG LÀ HỌ CỦA TRUNG THẦN THÔNG
Địa vị số một của Trung Thần Thông trong võ lâm được gọi là điạ vị bá chủ.
Nhưng mặc dù đã tham dự cuộc tỷ thí để đoạt chức vị bá chủ võ lâm, Trung Thần Thông lại có một bản chất trái ngược lại tư tưởng bá chủ.
1. Trung Thần Thông vốn là một người họ Vương mà trong từ ngữ Trung Hoa, vương có nghĩa là vua. Trong Hán văn thì chữ vương gồm 3 nét ngang và 1 nét dọc. Lúc khởi thủy, có thể đây là hình vẽ cái búa mà nhà cầm quyền dùng để chặt đầu những kẻ trái lịnh hay phạm pháp. Nhưng khi đã có một nền văn hoá khá cao rồi, người Trung Hoa giải thích rằng trong chữ vương, 3 nét ngang tượng trưng cho Trời, Đất và Người, và nét dọc hàm ý nối liền ba nét ngang trên đây. Lối giải thích trên đây đã trở thành cổ điển. Nó biểu lộ rõ rệt quan niệm cho rằng quyền uy của một nhà vua xứng đáng với danh hiệu vua được xây dựng không phải trên võ lực mà trên đạo lý. Đạo lý mà nhà vua phải dựa vào được gọi là vương đạo. Nó đòi hỏi nhà vua phải hành động theo nhân nghĩa, và phải dùng những phương tiện chánh đáng để phục vụ nhân dân. Chủ trương làm chánh trị theo vương đạo chính là chủ trương mà dân Trung Hoa đã chánh thức đề cao trong suốt mấy ngàn năm lịch sử.
2. Việc theo lý tưởng vương đạo của Trung Hoa đã được Kim Dung bộc lộ rõ rệt qua việc Trung Thần Thông nhất quyết không dùng CỬU ÂM CHÂN KINH. Đó là một tác phẩm dạy các căn bản để luyện nội công. Người tập đúng mức và thành công có thể chữa cho kẻ bị đánh mang nội thương trầm trọng và chính mình đợi lợi. Nhưng CỬU CÂM CHÂN KINH lại bao gồm những phương
pháp luyện công có cái ác độc dị thường. Công phu Cửu Âm Bạch Cốt Trảo phải cần dùng các ngón tay luyện tập kéo dài cho đến khi năm ngón tay đủ sự cứng rắn và chính xác cần thiết. Đã vậy, người luyện tập còn phải tẩm thêm chất độc trên ngón tay.
.
C- THÁI ĐỘ CỦA TRUNG THẦN THÔNG VỚI CỬU ÂM CHÂN KINH BIỂU LỘ THÁI ĐỘ CỦA NƯỚC TRUNG HOA CỔ ĐIỂN ĐỐI VỚI KHOA HỌC
1.Ta có thể nghĩ rằng Kim Dung đã dùng CỬU ÂM CHÂN KINH để chỉ các khoa học thực nghiệm. Các khoa học này nêu ra những nguyên tắc quan sát và suy luận có thể mở mang trí tuệ con người và giúp vào sự cải thiện đời sống của loài người về mọi phương diện. Nhưng nó cũng đồng thời bao gồm những cách thức làm việc trái với đạo nhân, như việc dùng các con thú làm vật thí nghiệm hay việc chế tạo các vũ khí hại người quá độ như các chất nổ có sức tàn phá lớn ,vũ khí hoá học ...
Theo hai bộ VÕ LÂM NGŨ BÁ và ANH HÙNG XẠ ĐIÊU thì Trung Thần Thông đã cố công tìm ra được bộ CỬU ÂM CHÂN KINH nhưng sau khi xem qua, ông đã quyết định không dùng nó mà còn nghiêm cấm môn đệ tập luyện theo nó.
Trong bộ THẦN ĐIÊU ĐẠI HIỆP, Kim Dung cho biết rằng Trung Thần Thông đã phải áp dụng các nguyên tắc ông đọc được trong CỬU ÂM CHÂN KINH mới sáng chế được các thế võ có đủ khả năng thắng các đòn của phái Cổ Một vốn mang tính cách chế khắc võ thuật của phái Toàn Chân . Mặt khác, các cao thủ võ lâm đều tìm CỬU ÂM CHÂN KINH để học và khi học được thì đều tiến bộ rất nhiều. Tuy nhiên, Trung Thần Thông vẫn duy trì quyết định không cho môn đệ ông học CỬU ÂM CHÂN KINH.
2. Kim Dung đã dùng các sự kiện này để chỉ thái độ của người Trung Hoa trước đây đối với khoa học thực nghiệm. Người Trung Hoa thời xưa đã có những phát minh khoa học cao diệu. Họ đã làm được kim chỉ nam, chế được thuốc súng, làm đồ gốm rất tốt và xây dựng được nhiều công trình kiến trúc vĩ đại, đặc biệt là các cây cầu chống không cần cột chôn ở giữa dòng sông để chống đỡ, khiến cho người Âu Châu hâm mộ. Đời Tam Quốc (thế kỷ thứ 3 sau CN), Hoa Đà đã biết giải phẩu và đã dám nghĩ đến việc mổ óc cho Tào Tháo. Nhưng các nhà lãnh đạo tinh thần của Trung Hoa từ thời xưa đã hướng dẫn dân tộc họ về việc tuyệt đối tôn trọng đạo đức mà quay lưng lại khoa học thực nghiệm. Đó là một quan điểm sai lầm tai hại mà hậu quả được nêu rõ trong các tác phẩm của Kim Dung nói đến Trung Thần Thông và phái Toàn Chân. Mặc dầu Trung Thần Thông đã đoạt được địa vị đệ nhất bá võ lâm, các đệ tử kế vị ông để lãnh đạo phái Toàn Chân về sau, đã sa sút các cao thủ đã từng bị ông đánh bại.
☆☆☆☆PHẦN II
● ĐÔNG TÀ HOÀNG DƯỢC SƯ . ĐÀO HOA ĐẢO NHẬN BẢN
Xét về mặt địa lý thì nước Nhât ở phía đông Trung Quốc. Trong các bộ truyện võ hiệp của Kim Dung có nói đến Đông Tà thì nhân vật mang ngoại hiệu này đã thường xuất hiện với bộ áo màu xanh. Cứ theo vũ trụ quan của người Trung Hoa thì màu xanh thuộc hành mộc và liên hệ với phương đông. Vậy, việc Đông Tà mặc áo màu xanh nhấn mạnh thêm chỗ vị trí của nước Nhật ở phía đông Trung Quốc. Mặt khác, căn cứ của Đông Tà là một hòn đảo mang tên là đảo Đào Hoa, mà nước Nhật lại gồm một số đảo và được nổi tiếng trên thế giới là xứ của hoa anh đào
2. Ngoài ngoại hiệu Đông Tà, ông lại còn được gọi là Dược Sư. Kim Dung đã cho biết rằng Đông Tà đã chế ra nhiều môn thuốc trị thương, chữa bệnh hay bổ dưỡng.Tuy nhiên, y dược chỉ là một trong các kỹ thuật ông học được và ông không phải chuyên môn dùng kỹ thuật đó để đi cứu người hay hại người như các nhân vật mang hiệu Dược sư hay Dược Vương trong các bộ truyện võ hiệp khác. Do đó, chúng ta có thể nghĩ rằng danh hiệu Dược Sư được dùng để gọi ông kế bên ngoại hiệu Đông Tà ắt có một dụng ý đặc biệt.
3. Tuy có học các môn võ thuật Trung Hoa, Đông Tà đã không dùng các môn ấy mà tự sáng chế ra một số môn võ riêng cho mình như Lạc Anh Chưởng, Phách Không Chưởng, Tảo Diệp Thoái, Ngọc Tiêu Kiếm Pháp, Đạn Chỉ Thần Công … Một trong các võ khí của Đông Tà là cây ngọc tiêu. Tiếng tiêu của ông thổi có thể êm đềm hoà dịu, nhưng cũng có thể khêu gợi các tình cảm của người một cách mãnh liệt, nhất là bản Thiên Ma Vũ Khúc kích thích dục tình rất mạnh mẽ và có thể làm cho người nghe điên loạn được. Để bảo vệ căn cứ của mình, Đông Tà đã dựa vào Kỳ Môn Bát Trậncủa Khổng Minh mà lập ra một Phản Kỳ Môn Bát Trận, bao trùm gần hết đảo Đào Hoa.
Cuộc hoà tấu giữa Đông Tà và Tây Độc trên đảo Đào Hoa, Kim Dung đã cho biết rằng công phu của Đông Tà thể hiện qua tiếng tiêu thuộc nhu tánh, trái với công phu Tây Độc thể hiện qua tiếng đàn tranh thuộc cương tánh. Với chi tiết này, Kim Dung đã ám chỉ rằng môn võ tiêu biểu cho kỹ thuật tranh đấu của người Nhật là Nhu Thuật về sau được biến chế để thành ra Nhu Đạo
3. Trong sự đối xử với kẻ khác, Đông Tà nhiều khi tỏ ra gian giảo và tàn độc. Lúc mới gặp Trung Thần Thông lần đầu ở hoang đảo Đông Tà đã dùng lối thổi ống tiêu khích động tâm thần của Trung Thần Thông, nếu ông này định lực yếu kém thì không khỏi bi tẩu hỏa nhập ma, chết ngay tức khắc. Để có CỬU ÂM CHÂN KINH mà nghiên cứu, Đông Tà đã bày mưu gạt Châu Bá Thông đánh cuộc với mình, và dùng thủ đoạn xảo trá để thắng cuộc, với mục đích làm cho Châu Bá Thông phải trao CỬU ÂM CHÂN KINH cho vợ mình đọc. Trong việc làm này, ông đã khai thác tánh ngây thơ của Châu Bá Thông và việc Châu Bá Thông không biết rằng bà vợ của Đông Tà có khả năng thuộc lòng một bản văn khó hiểu sau khi đọc bản văn ấy một lần. Bộ hạ Đông Tà gốc là những người tàn ác bị Đông Tà bắt được rồi cắt lưỡi, đâm lủng tai cho trở thành câm điếc để dùng.
Sau khi hai người đệ tử là Trần Huyền Phong và Mai Siêu Phong trái môn qui đánh cắp CỬU ÂM CHÂN KINH để trốn đi, Đông Tà đã trừng phạt các đệ tử khác bằng cách cắt đứt gân chơn của họ rồi đuổi ra khỏi đảo Đào Hoa, mặc dầu các đệ tử này vô tội. Khi gặp lại Mai Siêu Phong, mặc dầu đã thấy là lúc nghe tin mình bị hại, bà này tỏ ý sẵn sàng đi báo thù cho mình, Đông Tà vẫn không tha tội và cấy vào khớp xương sổng của bà một cây phụ cốt châm có tẩm chất độc, chất độc này mỗi ngày vận hành sâu lần làm cho ngƣời bị hình phạt đau đớn không chịu nổi. Đông Tà chỉ hoãn cho phụ cốt châm này không hành hạ Mai Siêu Phong ngay và đặt ba điều kiện cho Mai Siêu Phong thi hành để được tha hẳn. Trong các điều kiện này, có việc tìm phần CỬU ÂM CHÂN KINH mà vợ chồng bà đã đánh cắp rồi làm một cuộc điều tra để giết tất cả ai đã đọc qua tài liệu này, và việc tự hủy phá công phu mà bà đã học
trong CỬU ÂM CHƠN KINH đã đánh cắp. Nhưng tuy khắc nghiệt đổi với đệ tử Đông Tà lại không chấp nhận cho người khác đụng đến đệ tử của mình, dầu cho họ có lỗi lầm sai quẩy
4. Những điều trên đây cho thấy rằng trong con mắt Kim Dung, nước Nhật không ngần ngại dùng bất cứ phương tiện nào để đạt các mục tiêu của mình và các thủ đoạn cùng phương pháp hành động bạo tàn của nước ấy đã được áp dụng không những cho người ngoại quốc mà cho cả người công dân Nhật, mặc dầu lúc nào nước Nhật cũng tận lực binh vực các công dân của mình đối với người ngoại quốc. Điều đáng để ý là tuy đã bi thầy đối xử một cách hết sức tàn nhẫn ác độc và bắt theo một kỷ luật rất gắt gao, bọn đồ đệ của Đông Tà đều hết sức tôn trọng thầy và tuyệt đối trung thành với thầy. Lục Thừa Phong cũng như Khúc Linh Phong đã hoàn toàn tuân theo môn qui của Đông Tà, không hề dạy con các môn võ mình đã học với ông. Riêng Khúc Linh Phong tuy bị Đông Tà làm cho tàn tật đã lén vào cung vua nhà Tổng đánh cắp các đồ trân bảo và các danh hoạ với mục đích đem dâng cho thầy, Phùng Mặc Phong thì đến già vẫn nhớ đến thầy và tận lực chiến đấu bảo vệ thanh danh của thầy. Ngay đến Mai Siêu Phong cũng đã liều mạng đỡ đòn của Tây Độc thay thầy và do đó mà phải chết. Nhưng trước khi chết, bà đã tự làm cho hai tay bi gãy để hủy diệt các công phu Cửu Âm Bạch Cốt Trảo và Tồi Tâm Chưởng đã học trong CỬU ÂM CHÂN KINH mà vợ chồng bà đã đánh cắp của thầy, theo điều kiện mà Đông Tà đã đặt ra cho bà trước đây. Khi được Đông Tà ngỏ lời khen ngợi và nhìn nhận lại là đệ tử trung thành, bà hết sức vui mừng và lạy thầy đến chết.
Các sự kiện trên đây đã được dùng để mô tả tinh thần ái quốc và sự trung thành không bờ bến mà nước Nhật đã đào tạo được cho con dân mình bằng một kỳ luật rất nghiêm ngặt và một chính sách khắc nghiệt. Ta có thể nhận thấy rằng các đệ tử của Đông Tà dầu trước có tên gì thì cũng đều đổi lại tên Phong khi về đảo Đào Hoa. Chữ Phong ở đây có nghĩa là gió, giống như chữ Phong trong danh từ nổi tiếng của Nhật là Thần Phong (Kamikaze). Thần Phong nguyên là danh từ dùng để chỉ trận bão lớn năm 1281 đã làm đắm nhiều chiến thuyền của hạm đội Mông Cổ được định tiến đánh nước Nhật, làm cho nước này khỏi nạn bị xâm chiếm. Trong thời Thế Chiến II, người Nhật đã dùng danh từ Thần Phong để đặt cho các đội phi công cảm tử tình nguyện lao phi cơ chứa đầy chất nổ của mình xuồng các chiến hạm Đồng Minh và nổ tung với
các chiến hạm này, với hy vọng giữ cho nước Nhật khỏi thua trận.
Các tên Huyền Phong, Siêu Phong, Thừa Phong, Linh Phong, Mặc Phong của đám đệ tử Đông Tà đều có liên hệ với danh từ Thần Phong. Nó cho thấy rằng họ tiêu biểu cho tinh thần cảm tử của người Nhật trong thời từ Thế Chiến II trở về trước. Ngoài họ ra, Đông Tà không còn huấn luyện người đệ tử nào khác trong tinh thần đó. Khi trở về già, Đông Tà có lúc đã tỏ ra hối hận vì đã xử sự quá khắc nghiệt với học trò mình. Những điều này dùng để ám chỉ rằng sau Thế Chiến II, mặc dầu còn tồn tại như một
đại quốc, nước Nhật đã thay đổi chính sách và không còn quá khắc nghiệt đối với công dân mình như trước.
5.Nói chung lại thì trong các bộ truyện võ hiệp của Kim Dung có nói đến Đông Tà, có nhiều chi tiết cho rằng tác giả các bộ truyện ấy đã dùng nhân vật này để ám chỉ nước Nhật. Ta có thể nhận thấy rằng trong Võ Lâm Ngũ Bá đã luận võ trên đỉnh núi Hoa Sơn lần đầu chỉ có ông là còn sống đến kỳ luận võ lần chót và vẫn giữ nguyên ngoại hiệu Đông Tà không thay đổi. Chi tiết này được dùng đề chỉ việc chế độ chính trị Nhật xây dựng chung quanh uy quyền của Thiên Hoàng đã tồn tại qua dòng thời gian từ đời thượng cổ đến ngày nay
☆☆☆☆Phần III
● ÂU DƯƠNG PHONG VS ÂU DƯƠNG KHẮC : Biểu thị cho cả khối châu âu
Và DƯƠNG QUÁ : biểu thị cho nước MỸ.
1. Các dấu hiệu vật chất cho thấy rằng Tây Độc và Âu Dương Công Tử tượng trưng cho các nước Âu Châu. Về mặt vị trí địa lý, các nước Âu Châu vốn ở phía tây Trung Quốc.
Nhân vật mang ngoại hiệu Tây Độc được xem là Bạch Đà Sơn Chủ, tức là chúa núi Bạch Đà, mà chữ bạch trong Hán văn lại có nghĩa là màu trắng. Mặt khác, ông ta cũng như Âu Dương Công Tử thường mặc áo trắng, dùng sắc trắng đề trang phục cho nô tỳ của mình, đồng thời dùng một võ khí bằng thép hay sắt tức là chất thuộc kim loại, xác nhận vị tri của các nước Âu Châu ở phía Tây Trung Quốc. Ta lại có thể nhận thẩy rằng chú cháu Tây Độc họ Âu Dương, và trong danh hiệu của họ này có chữ ÂU dùng để ám chỉ Âu Châu.
2. Nếp sống của Tây Độc và Âu Dương Công Tử biểu lộ của văn hóa Âu Châu
Mối liên hệ giữa Tây Độc với Âu Dương Công Tử đã là một biểu tượng của sự phản đạo đức. Kim Dung đã cho biết rằng Tây Độc vì thông dâm với chị dâu mà ngầm sát hại anh ruột mình, và Âu Dương Công Tử trên danh nghĩa là cháu gọi ông bằng chú, nhưng thật sự lại chính là con ruột của ông. cả Âu Dương Khắc về sau cũng nhiễm thói dâm loạn của ông
Trong con mắt của những người này, đó là một nền văn hóa đặt nền tảng trên sự tự do cá nhân và thiên về sự hưởng thụ vật chất nên có tánh cách phóng túng và đồi trụy.
3. Con rắn, biểu tượng cho nền văn hóa Tây Phương phát xuất từ Âu Châu, có liên hệ mật thiết đến nền văn hóa Tây Phương và có thể dùng làm biểu tượng cho nền văn hóa ấy.
Với việc anh em Tây Độc nhờ được uống huyết và ăn thịt con Bạch Long Xà mà tăng thêm công lực, Kim Dung có ý muốn ám chỉ rằng các nước Tây Phương sở dĩ mạnh là nhờ có một nền văn hóa cổ cũng như Trung Hoa. Nhưng nền văn hóa cổ củaTây Phương so với nền văn hóa cổ của Trung Hoa thì không đáng được trọng vọng bằng.
Nói chung, kỹ thuật khoa học của người Tây Phương có thể dùng để phục vụ con người, nhưng cũng có thể dùng vào việc chiến đấu và tàn hại con người. Khi gặp điều kiện bất thuận lợi, nó có thể quay lại hại người sử dụng. Như môn Độc Xà Thần Công khi dùng để tấn công địch mà bị địch phản kích làm cho đòn mình đánh ra bị dội ngược lại, thì chính chất độc mình luyện để hại người lại trở lại hại mình. Ta có thể so sánh việc này với việc dùng bom hơi độc khi có chiến tranh. Người ta có thể dùng bom hơi độc để tàn phá nước địch, nhưng nếu gặp gió mạnh thổi hơi độc trở lại vào mình thì mình không khỏi bị thiệt hại nặng.
Mặt khác, việc thiên về trí tuệ và khả năng khoa học cũng làm cho các nước Tây Phương thường áp dụng một chính sách hợp lý. Điều này đã được Kìm Dung nhắc đến khi ông bảo rằng Tây Độc thường thành công trong các mưu đồ của mình là vì ông ta biết hành động đúng lúc, phải chỗ, không để lòng nông nổi lôi cuốn.
4. Kỹ thuật tranh đấu của Tây Độc, biểu tượng cho lề lối tranh đấu của người Tây Phương.
a. Võ thuật của Tây Độc bộc lộ sự dị biệt căn bản giữa hai nền văn hóa Trung Hoa và Tây Phương.
Về mặt võ thuật, Tây Độc thường dùng môn Thần Đà Tuyết Sơn Chưởng Pháp.
Nhưng công phu lợi hại nhất của ông là Cáp Mô Công. Cáp Mô là danh từ dùng để chỉ chung loài cóc nhái. Riêng con cóc là một con vật hình dáng xấu xa, da xù xì vì có nhiều mụt nổi lên, mà các mụt này lại có chứa đựng chất độc. Tây Độc không những luyện tập bằng cách hút các chất độc này vào cơ thể rồi hòa hợp nó với chân khí của mình, mà còn bắt chước tư thế con cóc khi sử dụng công phu này. Qua hình ảnh đó, Kim Dung cho thấy rằng võ thuật của người Tây Phương dựa vào sức mạnh một cách cục mịch nên không có sự tế nhị và sự huê dạng của các đòn võ thuật Trung Hoa hay Nhật. Mặt khác, khi mô tả cuộc hoà tấu giữa Tây Độc với Đông Tà trên đảo Đào Hoa, Kim Dung lại cho biết rằng công phu của Tây Độc thể hiện bằng tiếng đàn tranh thuộc cương tánh. Điều này xác nhận thêm tánh cách thô bạo thuần dựa vào sức lực của môn quyền thuật Tây Phương.
Trong giai đoạn sau của đời mình, Tây Độc đã bị Hoàng Dung gạt và luyện tập CỬU ÂM CHƠN KINH theo nguyên tắc ngược chiều, nên từ kinh mạch đến các chiêu thức đều trái ngược với đường lối bình thường, thậm chí đến động đầu xuống đất, trở cẳng lên trời khi di chuyển và đánh nhau với kẻ khác. Với hình ảnh này, Kim Dung đã cho thấy rõ sự di biệt căn bản trong hai nền văn hóa Trung Hoa và Tây Phương. Nền văn hóa Trung Hoa đặt nền tảng trên đạo đức cho nên lúc nào cũng xem tâm quan trọng hơn trí. Nền văn hóa Tây Phương lúc đầu cũng trọng đạo đức nhưng đến mấy thế kỷ sau này, lại thiên về việc mở mang trí tuệ nhiều hơn và lần lần xem trí quan trọng hơn tâm. Theo cái nhìn của Kim Dung, đó là một sự thay đổi trái với thiên lý, chẳng khác nào như việc trở cẳng lên trời, dộng đầu xuống đất.
Trong cuộc luận võ đầu tiên ở Hoa Sơn, Tây Độc đã dùng mỹ nhân trận và xà tng không khí lại có khả năng kết tụ lại chớ không tan. Tiếng đàn tranh ông dùng để điều khiển bầy rắn cũng như để lung lạc tinh thần của đối phương có tính cách khích độc để đối phó với Trung Thần Thông, mà hơi độc do bầy rắn của ông phun ra tác động dục tình của con người rất mãnh liệt.
Các hình ảnh này có dụng ý cho thấy rằng người Tây Phương bản tánh bồng bột mà lại đề cho tình cảm tự do biểu lộ chớ không kềm chế nó như người Trung Hoa. Trong sự bành trướng thể lực, người Tây Phương chẳng những đã dùng sức mạnh vật chất mà còng dùng lối phổ biến nếp sống phóng túng của họ đề làm yếu các nước khác.
5. Sự điên cuồng và mất trí của Tây Độc, biểu tượng cho sự vong thân và sự mất vị thế đại diện cho Tây Phương của người Âu Châu.
Trong quá khứ người Âu Châu đã nhiều lần xung đột mãnh liệt với nhau. Họ đã gây ra những cuộc nội chiến, như các cuộc xung đột đẫm máu giữa người theo Công Giáo La Mã và người theo các hệ phải Tin Lành; họ cũng đã gây ra những trận chiến tranh tàn khốc giữa các nước Âu Châu với nhau làm chết không biết bao nhiêu nhân mạng. Điều này đã được Kim Dung đặc biệt nói đến qua việc Tây Độc giết anh ruột mình.
b. Ngoài ra, ta còn có thể nhận thấy rằng ban đầu các nước Âu Châu là biểu tượng cho tất cả các nước Tây Phương, nhưng về sau, lúc khối Tây Phương trở thành mạnh nhất thế giới thì vai tuồng của các nước Âu Châu đã bị lu mờ, và khi nói đến Tây Phương, người ta lại nghĩ nhiều hơn đến nước Mỹ. Tuy phần lớn cũng là do dân Âu Châu mà ra, dân Mỹ lại không phải ở Âu Châu. Việc các nước Âu Châu một vị thế tiêu biểu cho khối Tây Phương đã được Kim Dung ám chỉ khi ông cho biết rằng Tây Độc mất trí, không còn biết mình tên là Âu Dương Phong và tưởng Âu Dương Phong là một nhân vật khác hơn mình.
☆☆☆☆☆ Phần IV
● HỒNG THẤT CÔNG CÁI BANG VÀ LIÊN XÔ
Về phần Bắc-Cái, có nhiều dấu hiệu cho thẩy rằng Kim Dung đã dùng ông để biểu tượng cho Liên Sô và như vậy thì Cái Bang do ông lãnh đạo chính là Đảng Cộng Sản Quốc Tế. tính cách mô tả Bắc-Cái như là một nhân vật anh hùng và nghĩa hiệp rất đáng kính trọng.
1.Về mặt vị trí địa lý, Liên Sô có biên giới chung với Trung Quốc ở phía bắc và phía tây, nhưng vì hướng tây đã được dùng để chỉ các nước Âu Châu nói chung nên Kim Dung phải dùng hướng bắc để nói đến Liên Sô.
2. Ý nghĩa họ Hồng của Bắc-Cái và môn qui của Cái Bang.
Mặt khác, Bắc-Cái là người họ Hồng. Chữ HỒNG ở đây biểu tượng lực lượng Hồng Quân trong chiến tranh chống phát-xít Đức ,mà kẻ thù ở đây ko ai khác đến từ Âu Châu là Âu Dương Phong
Họ sống bằng cách ăn xin và không trộm cướp, nhưng đối với hạng tham quan ô lại và cường hào ác bá bóc lột dân chúng và hạng làm giàu bất nhân thì họ có quyền tự do cướp đoạt tiền của để dùng. Họ thường làm việc cướp đoạt trên đây và đã đem tiền của cướp đoạt được để cứu giúp người nghèo.
Tổ chức bộ máy trong cái bang từ Bang Chủ ,Trưởng Lão , cấp chỉ huy theo số túi rồi mới đến Bang Chúng , rất giống tổ chức của Đảng Cộng Sản Quốc Tế
3. Đả Cẩu Bổng Pháp, tiêu biểu cho chủ trương giai cấp tranh đấu.
Trong các tác phẩm của Kim Dung bọn người bợ đỡ nịnh hót hạng hào phú, hạng ác bá hay bọn cường địch xâm lăng đất nước đều bị Cái Bang xem là chó. Cái Bang có môn võ đặc biệt hữu hiệu là Đả Cẩu Bổng Pháp để đối phó với cường địch .Qua chi tiết trên đây, ta có thể bảo rằng Kim Dung điều này để ám chỉ chủ trương giai cấp tranh đấu của chủ nghĩa Mar nói chung và người Cộng Sản nói riêng.
4.Nhắc đến Võ Lâm Ngũ Bá, chúng ta có thể thấy nhiều dữ kiện chứng tỏ rằng Bắc Cái và tổ chức Cái Bang do ông lãnh đạo đã được tác giả dùng để ám chỉ Liên Sô và Đảng Cộng Sản Quốc Tế. Ngoài ra, một số dữ kiện khác làm cho chúng ta có thể nghĩ rằng Bắc Cái đã được dùng để biểu tượng riêng cho nhà lãnh tụ Cộng Sản Quốc Tế Lenin .
Trong các bộ truyện võ hiệp của Kim Dung, Bắc Cái còn có biệt hiệu là Cửu Chỉ Thần Cái tức là ông ăn mày thần có chín ngón tay. Ông cũng được gọi là Hồng Thất Công. Hai bàn tay của Bắc Cái còn có 9 ngón vì ngón trỏ trên bàn tay mặt khi có hơi thơm của món ăn thì cứ giựt lên rần rật làm ông bực bội nên ông đã chặt bỏ nó đi. Ngón tay bị chặt này có thể kể như là tiêu biểu cho Quốc Tế Lao Động đầu tiên
5. Sự ẩn hiện bất thường của Bắc Cái so với hành động bí mật của Lenin.
Lenin thường hoạt động bí mật, thay đổi chỗ ở một cách bất thường để tránh sự theo dõi của thám tử các nước tư bản. Điều này cũng giống lối hành động của Bắc Cái là một nhân vật khi ẩn khi hiện không biết đâu mà lường.
HOÀNG DUNG, BIỂU TƯỢNG CHO STALIN.
Trong bộ ANH HÙNG XẠ ĐIÊU, Kim Dung có nói đến việc Bắc Cái truyền ngôi Bang Chủ cho Hoàng Dung một cách âm thầm khi ông bị mất công lực. Điều này có thể ám chỉ việc Stalin kín đáo chuẩn bị việc kế vị Lenin lúc ông này ngoại bệnh. Một số dữ kiện liên hệ đến việc Hoàng Dung nối ngôi Bang Chủ của Bắc Cái có thể sosánh với các dữ kiện liên hệ đến cuộc tranh quyền kế vị trong Đảng Cộng Sản Liên Sô.
Thân thế Hoàng Dung so với thân thế Stalin.
Lúc nhỏ, Hoàng Dung đã học một số võ thuật của cha. Sau đó gặp Bắc Cái bà mới dùng nghệ thuật nấu các món ăn ngon và mưu kế cùng lời lẽ khéo léo để làm cho Bắc Cái mến bà và vui lòng truyền dạy võ công cho bà và cho người tình của bà là Quách Tĩnh. Nhưng bà đã không được học Hàng Long Thập Bát Chưởng như Quách Tĩnh mà chỉ được học một môn võ ít lợi hại hơn là Yến Song Phi. Đến lúc trao quyền ngôi Bang Chủ cho bà, Bắc Cái mới dạy bà bí quyết sử dụng Đả Cẩu Bổng.
Cái tình tiết này có những chỗ tương tự với một số dữ kiện trong thân thế Stalin.
Ông này lúc nhỏ đã theo Thiên Chúa Giáo Chính Thống và đã vào học ở một chủng viện để làm giáo sĩ cho tổ chức tôn giáo này. Nhưng về sau, ông lại bỏ đạo, theo Đảng Cộng Sản và được chỉ định là Tổng Bí Thư của Đảng Cộng Sản Liên Sô. Lúc ông mới nắm giữ chức vụ đó, nó chưa có tầm quan trọng lớn lao như về sau này. Nhưng ông đã nhờ nó mà thân cận với Lenin và lấy danh nghĩa Lenin để điều khiển công việc nội bộ của Đảng, đồng thời gài người của mình vào bộ máy Đảng. Những điều này đã làm cho ông thật sự điều khiển được Đảng Cộng Sản Liên Sô lúc Lenin còn sống và nắm phần thắng lợi trong việc tranh quyền kế vị Lenin.
3 . Cuộc tranh đấu của Hoàng Dung để nắm quyền Bang Chủ Cái Bang so với cuộc tranh đấu của Stalin để nắm quyền Tổng Bí Thư Đảng Cộng Sản Liên Sô.
Trước khi ra mặt tranh đấu đề nắm quyền Bang Chủ Cái Bang, Hoàng Dung đã được cảm tình và sự giúp đỡ của phe ăn mày áo rách và bị sự thù ghét hãm hại của phe ăn mày áo lành . Khi đã ra mặt tranh đấu để nắm quyền Bang Chủ, Hoàng Dung lại cũng chỉ tỷ thí với các Trưởng Lão cầm đầu phe ăn mày áo lành . Và khi đã được toàn thể Cái Bang công nhận mình là Quyền Bang Chủ, bà đã phá bỏ lệ cũ, không để cho Bang chúng phun đàm dãi vào người như các Bang Chủ tiền nhiệm. Ngay sau khi được công nhận là Quyền Bang Chủ, bà đã trừng phạt Bành Trưởng Lão là một trong những người lãnh đạo phe ăn mày áo lành đã từng ám hại bà trước khi bà ra mặt tranh quyền Bang Chủ
Về phần Stalin thi từ lúc Lenin còn ngọai bệnh, ông đã phải trực tiếp đương đầu với Trotsky trong việc điều khiển Đảng Cộng Sản Liên Sô và sau đó, trong việc giành quyền kế vị Lenin. Nhờ dàn xếp để cho phe mình chiếm đa số trong các cơ cấu của Đảng nên trong Đại Hội bầu người lãnh đạo thay Lenin ông đã nắm phần thắng lợi mặc dầu đã bị phe Trotsky chống đối mãnh liệt. Sau khi cầm quyền điều khiển Đảng Cộng Sản Liên Sô, ông đã loại trừ và trừng phạt những người theo phe của Trotsky.
Các tội mà Stalin gán cho Trotsky đều phù hợp với các chi tiết liên
hệ đến kết cục Hoàng Dung dành cho Bành Trưởng Lão
☆☆☆☆Phần V
● Nam Đế ĐẠI DIỆN PHẬT GIÁO ĐÔNG NAM Á
Nam Đế chính là vua nước Đại Lý, một nước được thành lập trong lãnh thổ của tỉnh Vân Nam ngày nay. Nước này đã có từ đời nhà Đường (618-907) vả ban đầu gọi là nước Nam Chiếu. Nó đã có lúc rất cường thạnh và vào thế kỷ thứ 9, lúc đất nước ta còn bị nhà Đường cai trị dưới tên là An Nam, người Nam Chiếu đã nhiều lần đem binh lấn đánh. Nước Nam Chiếu về sau đổi tên lại là Đại Mông, rồi Đại Lễ, đến đầu đời nhà Tống (960-1276) ở Trung Quốc mới lấy tên là nước Đại Lý.
Nhân dân nước Đại Lý này vốn thuộc nòi giống Thái. Khi người Mông Cổ quật khởi lên vào thế kỷ thứ 13, và đánh chiếm các nước thì nhà vua Mông Cổ tên Mông Kha, (về sau được gọi là Nguyên Hiến Tông, t.v. 1251-1259) đã sai em là Hốt Tất Liệt (về sau nối ngôi anh và được gọi là Nguyên Thế Tổ, t.v. 1260-1294) mở cuộc tấn công nhà Tống. Nhân dịp này, Hốt Tất Liệt đã cho một bộ tướng của mình là Ngột Lương Hợp Thai vào nước Đại Lý và chiếm thủ đô nước ấy năm 1253 . Sau đó, lãnh thổ Đại Lý bị sát nhập luôn vào bản đồ Trung Quốc thành tỉnh Vân Nam. Viên tướng đem binh đánh Đại Lý và con Hốt Tất Liệt là Hốt Kha Kích được phong làm Vân Nam Vương đều là những nhân vật có liên hệ đến lịch sử Việt Nam. Chính Ngột Lương Hợp Thai đã đem binh sang đánh Việt Nam lần thứ nhứt dưới đời nhà Trần năm 1257 , cỏn Vân Nam Vương thì đã nhiều lần lấy thế lực uy hiếp Việt Nam nên đã được Trần Hưng Đạo nói đến trong bài hịch khuyên răn các tướng sĩ ông viết năm 1284. Khi nước Đại Lý mất, một số người dân nước ấy đã di cư về phía nam, một bộ phận vào nước Lào, một bộ phận đến ở với người Thái trên đất Thái Lan hiện tại. Sự nhập cư của họ đã tăng cường lực lượng của người Thái và đưa đến việc thành lập tại đó một quốc gia cường thạnh, trước đây gọi là Xiêm La và ngày nay gọi là Thái Lan.
B. CON LƯƠN THẦN LÀM TĂNG THÊM CÔNG LỰC CỦA NAM ĐẾ, BIỂU TƯỢNG CHO NỀN VĂN HOÁ CỔ CỦA THÁI LAN
Về mặt khả năng thì Nam Đế sở dĩ có được một công lực siêu phàm không thua các cao thủ khác là vì lúc trẻ, ông đã hút được huyết của một con lươn thần. Việc này có thể đem đối chiếu với việc Trung Thần Thông và Tây Độc có được công lực siêu phàm nhờ ăn cái nấm mọc trên bã nhơn sâm hoặc uống huyết và ăn thịt con Bạch Long Xà. Nói chung thì nó dùng để ám chỉ ảnh hưởng của một nền văn hóa tối cổ đến tiềm lực một quốc gia đó làm cho quốc gia đó vững mạnh.
Nhưng Trung Quốc, các nước Tây Phương và các nước Thái Lan có những điểm giống nhau mà cũng có những điểm khác nhau về mặt này. Theo sự mô tả của Kín Dung, khi uống huyết và ăn thịt con Bạch Long Xà giữa lúc đói rét, Tây Độc đã thấy tinh thần và thể chất phấn chấn lên ngay. Điều này ám chỉ việc nền văn hóa cổ của các nước Tây Phương chỉ giúp vào sự tiến bộ của họ về mặt vật chất chứ không gây trở lực gì có thể làm nguy hại đến nền độc lập của họ. Trái lại, Nam Đế khi hút huyết con lươn thần cũng như Trung Thần Thông khi ăn cái nấm mọc trên bã nhân sâm thì đã bị mê man ba ngày, tưởng đã phải bỏ mạng, chỉ nhờ có dị nhơn đến kịp mới cứu sống họ được và thâu nhận họ làm đệ tử. Sự kiện này đã được Kim Dung dùng để nói đến việc Trung Quốc cũng như Thái Lan tuy có nhờ nền văn hóa cổ mà có một sức mạnh tinh thần thâm hậu, nhưng cũng đã bị nền văn hóa đó ngăn trở trong việc canh tân và suýt làm cho mình bị mất nền độc lập.
Về bản chất thì thần vật đã giúp Nam Đế tăng thêm công lực là một con lươn chúa gọi là Kim Thiện Vương. Tuy là một trân vật, nó không phải thuộc loài thảo mộc tinh túy như cái nấm biểu tượng cho nền văn hóa cổ Trung Hoa, mà là một động vật còn mang thú tánh như con Bạch Long Xà biểu tượng cho nền văn hóa cổ của các nước Tây Phương. Tuy có khả năng siêu phàm nên được cho là có tánh thông linh, con lươn thần Kim Thiện Vương thật sự là một quái vật đã ăn thịt người. Quái vật này sống sâu dưới nước và được liệt vào loài cá. Điều này ám chỉ rằng nền văn hóa cổ của Thái Lan thuộc hệ thống văn hóa của các dân tộc Đông Nam Á Châu. Một phần người của các dân tộc này thuở trước đã sống ở Hoa Nam. Về sau, họ bị người Trung Hoa dồn về phía nam của Trung Quốc hiện tại, và những người còn ở lại và sống trên lãnh thổ Trung Quốc thì đã bị người Trung Hoa đồng hóa. Người của các dân tộc Đông Nam Á Châu này đã được người Việt Nam và người Trung Hoa thời được gọi chung là Bách Việt và được các học giả về nhơn chủng học gọi là nòi giống lndonesian, trong khi ông Bình Nguyên Lộc lại đặc biệt gọi họ là nòi giống Mã Lai. Họ có liên hệ ít nhiều ăn dân tộc Việt Nam ta, và nền văn hóa của họ là nền văn hóa của một giống dân sống về nông nghiệp và ngư nghiệp.
Kim Dung cho biết rằng sau khi hút được huyết con lươn thần, mình Nam Đế trừ ra ở tay chân và đầu mặt, còn thì ở chỗ khác trong châu thân đều có mọc những mụt đỏ bầm, các mụt này khi mọc rồi thì biến thành cứng rắn như vảy cá rất dày, đao thương đâm không lủng được. Nhờ đó, Nam Đế có thể chịu đựng các đòn mãnh liệt của địch thủ mà không hề hấn gì. Hiện tượng mọc vảy cá biểu lộ tánh cách thô sơ thấp kém của công lực, vì công lực cao thì hội nhập hoàn toàn vào cơ thể và không thể hiện ra ngoài. Nó có thể được Kim Dung dùng đế ám chỉ rằng về mặt võ thuật , công lực của người Thái Lan không phải chỉ dựa vào sự luyện tập mà còn dựa vào một số yếu tố ngoại lai như bùa, phép, gồng, ngải v.v. . . Nó cũng cho thấy rằng trong con mắt Kim Dung, nền văn hóa cổ của Thái Lan chưa đạt mực cao siêu của nền văn hóa cổ Tây Phương và dĩ nhiên là còn thua nền văn hoá cổ của Trung Hoa nhiều hơn.
C- VIỆC NAM ĐẾ HỌC CÔNG PHU NHẤT DƯƠNG CHỈ BIỂU LỘ ẢNH HƯỞNG THÊM CỦA TRUNG QUỐC ĐỐI VỚI THÁI LAN TRONG GIAI ĐOẠN CẬN ĐẠI
Nam Đế lại học công phu NhẤt Dương Chỉ với Trung Thần Thông, lúc ông này thấy rằng mình sắp chết và muốn truyền công phu này lại cho Nam Đế để Nam Đế đối phó với Tây Độc. Sự kiện này có thể dùng để ám chỉ việc người Thái Lan đã tiếp nhận thêm ảnh hưởng của Trung Hoa hồi thế kỷ thứ 18. Lúc ấy, một số người Trung Hoa đã được triều đình Thái Lan trọng dụng, và họ đã đóng một vai tuồng quan trọng về mặt chánh trị. Năm 1767, nước Thái Lan (thời ẩy còn gọi là nước Xiêm La) đã bị người Miến Điện tấn công và đã thảm bại. Trong cuộc tấn công này, người Miến Điện đã bắt được nhà vua Thái Lan đem về nước họ. Khi ấy, một tướng lãnh gốc Trung Hoa tên là Trịnh Quốc Anh, và mang tên Thái là Phya Taksin, đã cứu được nước Thái Lan khỏi mất. Ông đã lên làm vua nước ấy từ đó cho đến năm 1782 mới bị dòng vua hiện đang trị vì ở Thái Lan thay thế. Trong thời kỳ làm vua Thái Lan, dĩ nhiên là Trịnh Quốc Anh đã áp dụng một số kỹ thuật chánh trị của người Trung Hoa ở nước Thái Lan.
Mặt khác, chúng ta có thề nhận thấy rằng mặc dầu Trung Thần Thông là người đầu tiên luyện được Nhất Dương Chỉ, môn đệ ông đã không học được công phu này và Nhất Dương Chỉ cuối cùng đã trở thành công phu độc đáo của Nam Đế và môn đồ họ Đoàn. Như chúng tôi đã trình bày trong đoạn nói về Trung Thần Thông, Nhất Dương Chỉ biểu tượng cho lý tưởng thế giới đại đồng làm cho cả thiên hạ sống yên vui hòa mục và dùng sự nhân nghĩa mà đối xử với nhau. Đó là lý tưởng của nước Trung Hoà cổ điển, nhưng nó không còn được Trung Công áp dụng khi đã nắm được chánh quyền, mà lại được các nước thuộc Đệ Tam Thế Giới hiện tại đề cao. Sự kiện này đã được Kim Dung ám chỉ qua việc phái Toàn Chân không còn biết nền công phu Nhất Dương Chỉ vả công phu này trở thành bí quyết riêng của Hoàng Gia họ Đoàn ở nước Đại Lý.
Nhận xét
Đăng nhận xét