Hàng Long Thập Bát Chưởng
Phi long tại thiên (飛龍在天 - Fēi long zài tién) hào Cửu ngũ của quẻ Kiền, có nghĩa: "rồng bay lên trời". Khí dương đã phát huy rực rỡ, hoặc con người đã khai mở được bản tâm để phát huy diệu dụng.
Kiến Long Tại Điền (見龍在田 - Jiàn long zài tiàn) lời hào Cửu nhị của quẻ Kiền, có nghĩa là: "con rồng đã hiện ra trên mặt ruộng". Lúc này khí dương bắt đầu được khai mở.
Hồng Tiệm Vu Lục (鴻漸於陸 - Hóng jiàn wū lù) lời hào Cửu tam quẻ Tiệm, có nghĩa "con chim hồng dần bay đến đậu trên gò đất". Quẻ Tiện còn có tên là Phong sơn tiệm, do được tạo thành bởi quẻ Cấn (là núi) ở dưới và quẻ Tốn (là gió) ở trên. Ý nghĩa tượng trưng của Hồng tiệm vu lục là hào Cửu tam có vị trí trên cùng của quẻ Cấn, là hào dương xử ở ngôi dương, cương kiện năng tiến, do đó mới có tượng "con chim hồng dần bay lên đậu trên gò đất".
Tiềm Long Vật Dụng (潛龍勿用 - Qián long wù yòng) lời hào Sơ cửu của quẻ Kiền, có nghĩa là: "như con rồng còn đang ẩn náu; không nên dùng". Khi khí dương còn đang tiềm tàng, hoặc bản thể của tâm chưa được phát lột thì không nên hành động.
Cang Long Hữu Hối (亢龍有悔 - Kàng long yǒu huǐ) lời hào Thượng cửu của quẻ Kiền, có nghĩa: "Rồng bay quá cao ắt sẽ hối hận". Hào dương ở ngôi cao nhất của quẻ thuần dương, như để tâm chìm đắm vào chỗ lưu đãng, hư huyền xa rời mất cõi nhân sinh, ắt sẽ hối hận. Dùng Cang long hữu hối phải có phát có thu, lực đánh ra 10 phần, lưu lại 20 phần.
Lợi Thiệp Đại Xuyên (利涉大川 - Lì shè dà chuān) có nghĩa: "có lợi trong việc lội qua sông lớn", đây là lời thường dùng trong các quái từ, hào từ của Kinh Dịch. "Đại xuyên" là sông lớn, thường được dùng để ví với sự gian nan hiểm trở.
Đột Như Kỳ Lai (突如其來 - Tū rú qí lái) lời hào Cửu tứ quẻ Ly, có nghĩa: "thình lình ập tới". Trong hào Cửu tam thì sự đe dọa đã bắt đầu hiện ra dưới hình thức ngọn cầu vồng lấn át ánh nắng chiều, và đến hào Cửu tứ thì đột ngột chuyển thành hiện thực.
Chấn Kinh Bách Lý (震驚百里 - Zhèn jīng bǎi lǐ) lời quái từ và lời thoán truyện của quẻ Chấn, có nghĩa: "tiếng sấm động vang xa hàng trăm dặm".
Hoặc Dược Vu Uyên (或躍於淵 - Huò yuè wū yuān) hào Cửu tứ của quẻ Kiền, có nghĩa: "hoặc nhảy vào vực thẳm". Đây là bước rẽ quyết định, con người từ bỏ thế giới rạch ròi của lý trí để đi vào thế giới huyền vi của tâm thức.
Song Long Thủ Thủy (雙龍取水 - Shuāng long qǔ shuǐ) Chúng tôi chưa tra cứu được xuất xứ, có lẽ tác giả chỉ thuận tay dùng các thành ngữ quen thuộc trong kho tàng văn học Trung Quốc mà đặt tên, theo kiểu các chiêu "Giao long hỷ thủy", "Lưỡng long tranh châu"... thường gặp các tiểu thuyết võ hiệp chứ không phải là câu được chọn ra từ Kinh Dịch.
Ngư Dược Vu Uyên (魚躍於淵 - Yú yuè wū yuān)
Thời Thừa Lục Long (時乘六龍 - Shí shèng liù long)
Mật Vân Bất Vũ (密雲不雨 - Mì yún bù yǔ) Thanh phong từ lai, bái nhiên hữu vũ.
Tổn Tắc Hữu Phu (損則有孚 - Sǔn zé yǒu fú)
Long Chiến Vu Dã (龍戰於野 - Long zhàn wū yě) lời hào Thượng lục của quẻ Khôn có nghĩa: "rồng đánh nhau nơi hoang dã". Âm đã đến lúc cực thịnh nên tranh nhau với Dương.
Lữ sương băng chí (履霜冰絰 - Lǚ shuāng bīng dié) Sơn vũ dục lai, lữ sương băng chí, tên đầy đủ là "lữ sương, kiên băng chí", lời hào Sơ lục quẻ Khôn, có nghĩa: "dẫm trên sương, thì biết băng dày sắp đang tới". Đây là tượng của khí âm mới sinh.
Đê Dương Xúc Phiên (羝羊觸藩 - Dī yáng chù fān)
Thần Long Bãi Vĩ (神龍擺尾 - Shèn long bǎi wěi) Nguyên trong Kinh Dịch không có câu này, mà chỉ có câu "Lý hổ vĩ, điệt nhân, hung" của hào Lục tam quẻ Lý, có nghĩa "đi sau cọp, đạp đuôi cọp, bị nó quay lại cắn, nguy hiểm". Kim Dung giải thích tên chiêu này được lấy từ câu trên, để tả khí thế mạnh mẽ và hung dữ của chiêu thức. Người đời sau thấy chữ "hổ" không hợp trong môn chưởng pháp "hàng long" nên đổi thành "Thần long bãi vĩ".
hoc di may' thanh;''
Nhận xét
Đăng nhận xét